Showing posts with label Văn Hóa. Show all posts
Showing posts with label Văn Hóa. Show all posts

Friday, January 23, 2015

Tây Ban Nha mở cửa công viên Xì Trum đầu tiên trên thế giới

Chính quyền địa phương đã quyết định biến ngôi làng sơn toàn màu xanh nổi tiếng ở thị trấn Juzcar thành công viên chủ đề Smurf nhằm thu hút khách du lịch.
Juzcar là một thị trấn nhỏ nằm ở tỉnh Malaga thuộc miền nam Tây Ban Nha. Ban đầu, các ngôi nhà ở đây được sơn một màu trắng tinh khôi. Khi Juzcar được lựa chọn làm địa điểm quảng bá bộ phim Smurfs (Xì trum), đoàn phim đã thuyết phục được toàn bộ dân làng sơn lại nhà thành màu xanh da trời.
1-7645-1419388502
Toàn bộ thị trấn được sơn lại một màu xanh – màu đặc trưng của nhân vật Xì Trum. Ảnh: Findahappyplace.
Sau khi thay áo mới vào năm 2011, điểm đến nhỏ bé này bất ngờ đón một lượng lớn du khách ghé thăm. Họ thích thú với phong cách Xì Trum và lượt người tới đây đã lên đến 200.000.
Trước sự bùng nổ mạnh mẽ về lượng du khách, chính quyền địa phương đã quyết định biến Juzcar thành một công viên chủ đề Smurf. Khi được xây dựng xong, đây sẽ là công viên chủ đề về Xì Trum đầu tiên trên thế giới.
juzcar-smurf-road-4463-1419388503
Ngôi làng đã thu hút hơn 200.000 du khách ghé thăm. Ảnh: Capitalbay.
Theo ước tính, để biến ngôi làng thành công viên, Tây Ban Nha phải cần ít nhất 55 triệu USD làm kinh phí. Tuy bỏ ra một số tiền lớn, chính quyền sở tại lại tràn đầy hy vọng nơi đây sẽ thu về ít nhất 16 triệu USD mỗi năm. Nhóm khách mà công viên muốn hướng tới là các gia đình có con nhỏ và trẻ em từ độ tuổi 2 đến 12.
3-6889-1419388504
Các em bé trong làng hóa trang giống nhân vật Xì Trum. Ảnh: Capitalbay.
Vào những năm 80 và 90 của thế kỷ trước, ở Pháp cũng có một công viên chủ đề về nhân vật Xì Trum. Tuy nhiên sau khi công viên bị một công ty khác mua lại, dự án này đóng cửa.

Saturday, April 12, 2014

PHONG TỤC VĂN HÓA DÂN TỘC H'MÔNG

Người H’mông là một trong những dân tộc thiểu số có dân số đông ở Miền Bắc Việt Nam. Cùng với 53 dân tộc anh em, người H’mông luôn luôn là một phần của sự thống nhất khối đại đoàn kết dân tộc và góp phần làm phong phú cho nền văn hoá các dân tộc Việt Nam.

Đồng bào có câu “Lửa cháy đến đâu người Mông theo đến đó” hay “Người chạy theo nương” để nói về cuộc sống du canh nương rẫy. Sản phẩm nông nghiệp chính là ngô, lúa nương, khoai, mạch ba góc, ý dĩ, lạc, vừng, đậu và các loại rau... ở một vài nơi có ruộng bậc thang. Các loại quả táo, đào, mận, lê cũng rất nổi tiếng và đồng bào còn trồng cả các loại cây thuốc như tam thất, xuyên khung, đảm xâm…

Nghề dệt vải lanh là một trong những hoạt động sản xuất đặc sắc của người H’mông. Họ phát triển đa dạng các nghề thủ công như đan lát, rèn, làm yên cương ngựa, đồ gỗ, nhất là các đồ đựng; làm giấy bản, đồ trang sức bằng bạc phục vụ nhu cầu và thị hiếu của người dân. Các thợ thủ công H’mông phần lớn là thợ bán chuyên nghiệp, làm ra những sản phẩm nổi tiếng như lưỡi cày, dao, cuốc, xẻng, nòng súng đạt trình độ kỹ thuật cao.

Người H’mông sống quần tụ trong từng bản có vài chục nóc nhà, họ thường thích sống khép kín, nhiều nơi đồng bào xây tường đá ngang đầu quanh nhà ở. Nhà cửa là loại nhà trệt, ba gian hai chái, có từ hai đến ba cửa. Phổ biến là nhà bưng ván hay vách nứa, mái tranh. Quanh làng vẫn còn lại đến ngày nay những ngôi nhà của người H’mông giàu có, trình tường xung quanh, cột gỗ thông kê trên đá tảng hình đèn lồng hay quả bí, mái lợp ngói âm dương có gác lát ván.

Các vùng người H’mông sinh sống thường có chợ phiên, vừa là nơi trao đổi hàng hoá, vừa là nơi thể hiện nhu cầu giao lưu tình cảm, sinh hoạt. Người H’mông quen dùng ngựa thồ hàng và cưỡi đi chợ, gùi có hai quai đeo vai. Con ngựa rất gần gũi và thân thiết với từng gia đình người H’mông. Chợ tình được tổ chức mỗi năm một lần (chợ tình Sa Pa) là một nét văn hoá đẹp đặc sắc của người H’mông.

Người H’mông rất coi trọng dòng họ, họ quan niệm: người cùng dòng họ là những người anh em có cùng tổ tiên, có thể đẻ và chết trong nhà nhau, phải luôn luôn giúp đỡ nhau, cưu mang nhau. Mỗi dòng họ cư trú quây quần thành một cụm, có một trưởng họ đảm nhiệm công việc chung. Phong tục cấm ngặt những người cùng họ lấy nhau. Tình cảm gắn bó giữa những người trong họ sâu sắc. Trưởng họ là người có uy tín, được dòng họ tôn trọng, tin nghe.

Người H’mông cũng như nhiều dân tộc ít người khác tồn tại tín ngưỡng đa nguyên. Thờ cúng tổ tiên là thờ những người trong gia đình đã chết ba đời trở lại. Thờ cúng tổ tiên ở tất cả gia đình những người con trai đã tách ra ở riêng chứ không phải chỉ con trưởng. Bên cạnh thờ cúng tổ tiên, người H’mông còn tồn tại một hệ thống ma nhà với những lễ thức cúng bái riêng biệt.

Hôn nhân gia đình của người H’mông theo tập quán tự do kén chọn bạn đời. Những người cùng dòng họ không lấy nhau. Thanh niên nam nữ được lựa chọn bạn đời. Việc lựa chọn bạn đời được biểu hiện ở tục “cướp vợ” trước đây. Người thanh niên cùng bạn bè cướp người con gái yêu thích về ở nhà mình vài hôm rồi thông báo cho gia đình nhà gái biết. Vợ chồng người H’mông rất ít bỏ nhau, họ sống với nhau hòa thuận, cùng làm ăn, cùng lên nương, xuống chợ...

Trang phục của người phụ nữ H’mông rất sặc sỡ, đa dạng giữa các nhóm dân tộc, gồm: váy, áo xẻ ngực có yếm lưng, tấm xiêm che trước bụng, thắt lưng, khăn quấn đầu, xà cạp quấn hai bụng chân. Váy hình nón cụt, xếp nếp xòe rộng chữ thập trong các hình vuông, nhưng váy mang hình ống, khi mặc mới xếp nếp thắt lưng ngoài cạp; Áo mở chếch ngực về phía bên trái, cài một khuy, cánh tay, cổ áo, gấu áo đều thêu hoa văn…Đồ trang sức bao gồm khuyên tai, vòng cổ, vòng tay, vòng chân, nhẫn.

Trang phục của đàn ông H’mông giống như đàn ông Nùng: quần dài, đũng chân què cạp lá tọa, áo ngắn ống rộng cổ đứng mổ bụng khuy cài, quần áo đều màu chàm.

- Dân tộc H’mông hay Mông, Na Miẻo còn có các tên gọi khác là Mẹo, Mèo, Miếu Hạ, Mán Trắng.
- Nhóm địa phương: Mông Đơ (Mông Trắng), Mông Lềnh (Mông Hoa), Mông Sí (Mông Đỏ), Mông Đú (Mông Đen), Mông Súa (Mông Mán), Mông Xanh.
- Tiếng nói thuộc ngôn ngữ hệ Mông – Dao
- Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Mông ở Việt Nam có 1.068.189 người, cư trú tập trung tại các tỉnh Hà Giang, Điện Biên, Sơn La, Lào Cai, Yên Bái, Cao Bằng ...
Người H’mông có đời sống văn nghệ khá phong phú, đặc biệt là văn học truyền miệng có rất nhiều thể loại, như Truyện thần thoại về anh hùng văn hóa tìm ra loại giống và dạy người H’mông cách trồng ngô, lúa, trồng lanh làm vải mặc … Truyện cổ tích về các con vật chiếm khá nhiều, đặc biệt là truyện về hổ…

Người H’mông say đắm dân ca dân tộc mình, đó là Tiếng hát tình yêu (gầu plềnh), Tiếng hát cưới xin (gầu xuống)… mà họ thường hát khi lao động nương rẫy, trong lúc se sợi dệt vải, trong khi đi chợ, đi hội.

Trong những dịp lễ hội, đặc biệt là hội Gầu tào (đón năm mới), những bài hát dân ca này không chỉ thể hiện bằng lời mà còn có thể giãi bày thông qua những nhạc cụ dân tộc (sáo, khèn, kèn lá, đàn môi…). Thanh niên thích chơi khèn, vừa thổi vừa múa. Kèn lá, đàn môi là phương tiện để thanh niên trao đổi tâm tình. Sau một ngày lao động mệt mỏi, thanh niên dùng khèn, đàn môi gửi gắm và thể hiện tiếng lòng mình với bạn tình, ca ngợi vẻ đẹp của cuộc sống, của quê hương, đất nước.

Trong cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam, dân tộc H’mông là một trong những dân tộc ít bị mai một hơn về bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc. Trong thời kỳ hội nhập quốc tế như hiện nay, để phát triển mà không bị hoà tan, mất bản sắc, thì việc bảo tồn văn hoá dân tộc đòi hỏi phải có sự nghiên cứu, tâm huyết, bền bỉ, lâu dài. Có như thế những giá trị văn hoá sẽ mãi mãi được gìn giữ và phát huy./.
Nguồn : Tin tức Du lịch

Friday, April 11, 2014

Làng nghề rượu Vọc

Đóng góp vào sự độc đáo cùng với hơn 40 làng nghề tại Hà Nam, làng Vọc ở huyện Bình Lục là một làng nghề nổi tiếng với rượu Vọc. Về thăm làng Vọc ta sẽ được thấy cuộc sống no ấm cùng với nghị lực vươn lên của người dân vùng đất chiêm khê mùa thối.

Làng nghề rượu Vọc thuộc xã Vũ Bản được coi là làng thịnh vượng hơn cả nhờ có nghề nấu rượu gạo truyền thống. Ngoài công việc chính làm ruộng, hầu hết các gia đình trong làng đều tham gia ít nhiều vào nghề này: hoặc làm men, buôn bán men, nấu rượu hay mở cửa hàng bán rượu.
Từ bao đời nay, người làng Vọc chỉ trung thành với một công thức chưng cất rượu. Rượu được nấu bằng gạo đặc sản ủ với men ta gồm 36 vị thuốc Bắc. Công đoạn làm rượu rất công phu. Từ lúc úp men phải trải qua 2 – 3 ngày, chờ khi men dậy mới được mở. Cơm rượu nấu chín vừa, không khô hoặc nhão quá, đánh tơi để nguội trước khi rắc men, sau đó cho vào vò sành ủ 48 tiếng, khi có mọng mới được đổ nước, sau 2 đêm thì đem nấu.
Từ lâu người làng Vọc đã xây dựng được hương ước bảo vệ và giữ gìn bí quyết gia truyền. Quy ước quy định rõ ràng về chất lượng rượu cổ truyền làng Vọc, rượu chỉ dùng men thuốc Bắc, nấu với gạo đặc sản của quê hương, nghiêm cấm việc sản xuất rượu kém chất lượng làm ảnh hưởng đến uy tín của làng. Hiện nay có nhiều công nghệ sản xuất rượu hiện đại nhưng người làng Vọc vẫn cất rượu theo phương pháp cổ truyền. Cầm chai rượu trong veo, chỉ cần mở nút hoặc lắc nhẹ, những bọt rượu chạy quanh chai bám chặt với nhau toả ra hương thơm ngào ngạt.
Nói tới rượu làng Vọc, không ai không nhắc tới thương hiệu Vọc Long Tửu của gia đình ông Nguyễn Văn Long, người đã có công lớn trong việc vực dậy danh tiếng của rượu làng Vọc trước sự suy giảm chất lượng men và sự tấn công ồ ạt của các loại rượu ngoại cùng nhiều sản phẩm đồ uống trên thị trường. Sinh ra trong gia đình theo nghề nấu rượu lâu đời, ông Long rất buồn khi thấy rượu quê mình ngon mà chỉ bán quanh quẩn mấy vùng lân cận. Ông quyết định phải xây dựng một thương hiệu cho rượu Vọc để có thể tự tin mang sản phẩm quê mình đi xa hơn nữa, đó là thương hiệu Vọc Long Tửu.
Hiện nay, Vọc Long Tửu đang có mặt trên thị trường cả nước nhất là các thành phố lớn như: thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng và được du khách mua làm quà mang sang các nước Nhật, Đức, Pháp, Nga… để làm quà và quảng bá thương hiệu. Vọc Long Tửu đã đoạt được nhiều giải, cúp vàng về chất lượng và mẫu mã cùng nhiều câu thơ ca tụng.
Cùng với bí quyết gia truyền và sự chịu thương, chịu khó của người dân làng nghề, làng Vọc còn được thiên nhiên ban tặng cho một nguồn nước quý để tạo nên sản phẩm rượu Vọc có hương vị đặc trưng mà những nơi khác không thể có được dù có cùng bí quyết nấu rượu.
Nhờ sự giáo dục qua nhiều thế hệ làng nghề về cái tâm trong sáng nên dù trong thời kỳ cạnh tranh gay gắt nhưng rượu Vọc vẫn giữ được hương vị đậm đà, không phai lẫn với hàng trăm thứ rượu đang có mặt trên thị trường. Đặc biệt, để đảm bảo vệ sinh, rượu chỉ đóng trong vò sành, nậm gốm chứ không đựng trong can hoặc chai nhựa. Được khách hàng gần xa biết đến, nhất là trong thời kỳ hội nhập WTO, thị trường rượu Vọc ngày càng mở rộng. Trước đây, làng chỉ bán ra thị trường 1 triệu lít /năm, nay tăng lên gấp 2 lần. Nhờ rượu, mỗi năm Vũ Bản đạt giá trị thu nhập 22 – 25 tỷ đồng. Hương rượu Vọc đã bay tới Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, là món quà không thể thiếu của những người con xa quê hương. Nhờ làm rượu mà làng Vọc đã thay da đổi thị, đường làng ngõ xóm được bê tông hoá, nhà cao tầng mọc lên san sát, làng không còn hộ đói, hộ khá giàu tăng mạnh.
Năm 2006, rượu Vọc đã đoạt giải nhất về mẫu mã và giải nhì về chất lượng tại Hội thi tuyển chọn các sản phẩm làng nghề truyền thống do Bộ Văn hoá – Thông tin tổ chức. Đầu năm 2007, rượu Vọc được tặng Bằng khen tại Hội chợ triển lãm thương mại của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Với giá trị văn hoá ẩm thực cùng bề dày truyền thống của làng, ngày 10/5/2007, làng đã được đón nhận danh hiệu “Làng nghề rượu Vọc” theo quyết định của UBND tỉnh. Không những thế, dự án đăng ký nhãn hiệu tập thể rượu Vọc với Cục Sở hữu trí tuệ cũng sẽ sớm được hoàn thiện và triển khai thành công trong thời gian tới . Đây sẽ là bước đệm để rượu Vọc vươn xa hơn nữa.
Các cấp lãnh đạo xã Vũ Bản đã đưa ra chủ trương coi làng nghề rượu Vọc là vùng kinh tế trọng điểm của xã. Để giữ gìn, phát huy nghề truyền thống, chính quyền địa phương sẽ dồn sức đầu tư, khai thác triệt để tiềm năng thế mạnh của làng, nhất là trong thời kỳ hội nhập hiện nay. Dự kiến, xã sẽ khởi công xây dựng nhà máy sản xuất chế biến rượu Vọc với tổng vốn đầu tư 2 tỷ đồng, đồng thời dành khoảng 100 ha để trồng các giống lúa đặc sản cung cấp cho làng nghề.
Với sự quyết tâm phát triển nghề của những người dân làng Vọc như ông Long cùng thương hiệu Vọc Long Tửu và cùng với sự quan tâm của các cấp chính quyền như trên, rượu Vọc đã trở thành đặc sản quý không chỉ của Hà Nam. Niềm tự hào đó nhắc nhở người làng Vọc càng phải có trách nhiệm trong việc giữ gìn bản sắc truyền thống của làng nghề, để rượu Vọc chiếm lĩnh được thị trường, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển./.

Popular Posts